Từ ngày 06-07/10/2022 tại tỉnh Khánh Hoà, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã tổ chức Hội thi thợ giỏi khối Nguồn và Truyền tải điện cấp EVN. Tham gia Hội thi có 71 thi sinh với các nội dung thi về nghề Trưởng ca Thủy điện; Nghề Trưởng ca Nhiệt điện; Nghề Quản lý Doanh nhân Phạm Thị Ngọc Ánh chính thức ghi danh tại cuộc thi Hoa hậu Doanh nhân Châu Á Việt Nam 2022 11:06 07/10/2022 Sau thời gian phát động, cuộc thi Hoa hậu Doanh nhân Châu Á Việt Nam 2022 đã chính thức hé lộ những thí sinh đầu tiên. Á hậu Tống Thị Kim Oanh khoe nhan sắc kiều diễm tại họp báo Hoa hậu Doanh nhân Châu Á Việt Nam 2022 Vĩnh Minh Tự Viện, vinh minh tu vien, chua vinh minh tu vien. Sunday, Oct 09th. Last Trời Thơ Đất Mộng Phiêu Bồng Thi Ca; Tùy Bút. QUÝ HỮU SẼ NGHĨ GÌ, LÀM GÌ NẾU KHI CHỈ CÒN TRĂM NGÀY ĐỂ SỒNG ?! Kinh Pháp Hoa (MP3) - 17.04.12. kinh Diệu Pháp Liên Hoa Hà Nội 150 m mặt cầu Vĩnh Tuy được điều chỉnh dải phân cách, tháo dỡ hai nhịp và trụ cầu, phục vụ thi công giai đoạn 2. Anh Phú Độc giả chia sẻ Video đến video@vnexpress.net hoặc gửi thông tin, câu hỏi tại đây . Ông Thái Quốc Lưu - Phó Giám đốc Sở VH-TT-TT&DL trao giải Nhất cuộc thi cho các thí sinh.Ảnh: H.T Cuộc thi Đại sứ văn hóa đọc năm 2022 với chủ đề "Khát vọng phát triển đất nước" nhằm lan tỏa văn hóa đọc dành cho học sinh; góp phần khuyến khích, thúc đẩy phong trào đọc sách, sáng tác, ươm mầm sáng tạo Mô tả. Cuốn sách Các chuyên đề ngữ pháp luyện thi tiếng anh vào lớp 6 do thầy Bùi Văn Vinh làm biên soạn theo chương trình mới nhất của Bộ giáo dục và Đào tạo, nhằm giúp các em học sinh lớp 5 ôn luyện, tuyển sinh vào lớp 6. Bộ tài liệu gồm các chủ điểm ngữ pháp cOyQTuk. Mô tả Thọ trì kinh nghĩa là nhận kinh từ Phật và giữ kinh trong tâm, trong việc làm. Nói cách khác, ta nhận lãnh di huấn của Phật và thay thế Ngài hướng dẫn người thăng hoa tri thức, đạo đức. Tuy nhiên, khi Phật tại thế, những người trực tiếp với Đức Phật dễ dàng nhận được ý Phật dạy. Chúng ta không trực tiếp với Ngài, cho nên phải mượn văn tự kinh, nương theo đó tu hành. Trong kinh Pháp Hoa chia ra ngũ chủng Pháp sư, tức là năm cách tu gồm có thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói. Đọc, tụng, biên chép và giảng nói là bốn trợ hạnh giúp ta phát huy chánh hạnh là thọ trì kinh. Trong hai mươi tám phẩm kinh Pháp Hoa, có người chọn mười phẩm cốt yếu để thọ trì, nhưng cũng có vị chọn một phẩm là phẩm Phổ Môn, như Hòa thượng Thiện Hoa lúc sanh tiền, hàng ngày ngài chuyên trì tụng duy nhất phẩm này. Hoặc Ngài Huệ Đăng chỉ trì tụng từ phẩm Như Lai thần lực đến phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát. Ngài Nhật Liên Thánh nhân thì dạy thọ trì nhứt phẩm nhị bán, nghĩa là thọ trì một phẩm thứ 16, Như Lai thọ lượng và nửa phẩm thứ 15, Tùng địa dũng xuất và nửa phẩm thứ 17, Phân biệt công đức. Riêng tôi thì chọn bảy phẩm để hình thành Bổn môn. Đó là phẩm Tựa, Pháp sư, Tùng địa dũng xuất, Như Lai thọ lượng, Phân biệt công đức, Phổ môn, Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát. Tại sao có sự khác biệt về việc chọn lựa các phẩm kinh Pháp Hoa để thọ trì. Có thể nói dưới dạng Bổn môn, hay dạng đổi mới mà nhìn về giáo lý Phật để hiểu, để sống và truyền bá lợi lạc cho người là chính. Không rập y khuôn cũ, không chấp chặt vào văn tự; nhưng hiểu được ý chính của kinh và tuyển chọn những ý nào thích hợp với thời gian và quốc độ để ứng dụng vào cuộc sống là chính yếu. Vì vậy, sử dụng một phẩm, hay nhứt phẩm nhị bán, hay bảy phẩm, là tùy theo sở ngộ của từng vị tu chứn khác nhau. Và pháp tu chứng ấy cũng thay đổi cho thích hợp tương ưng với thời kỳ, với hoàn cảnh của mỗi người khác nhau. Đó là sự nhận thức theo Đại thừa. Ở giai đoạn một, chúng ta học hiểu Phật pháp phải đạt được sở đắc của riêng mình. Đến giai đoạn hai, đem sở đắc ấy ứng dụng vào cuộc sống, như khi tôi dạy ở các trường Phật học và tiếp xúc với các tín đồ, lại gặp những khó khăn khác. Theo Bồ tát đạo, lúc ấy chúng ta có cái học trong nhân gian làm nảy sinh ra những nhận thức khác. Và đến giai đoạn ba, từ sở đắc tiến đến vô sở đắc thì chúng ta dạy, hoặc thuyết pháp phải ứng cảm tùy cơ mới thành công. Nếu Phật giáo theo mô hình cố định thì không thể tồn tại. Sự đổi mới tư tưởng theo từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, từng nước cho thích hợp để đưa Phật giáo đi lên. Trong bảy phẩm Bổn môn, tôi không sử dụng y theo chánh văn của bộ kinh hai mươi tám phẩm, chỉ rút lấy những điểm chính yếu. Thọ trì Bổn môn nhằm nắm giữ yếu nghĩa kinh. Đến khi thuần thục, chúng ta vẫn thầm đọc kinh trong lòng và giai đoạn ba, không cần đọc thầm, nhưng cuộc sống của chúng ta dã tiêu biểu cho bộ kinh Pháp Hoa. Bổn môn Pháp Hoa gồm bảy phẩm. Con số bảy gợi cho chúng ta liên tưởng đến thất đại, hay bảy nguyên tố hình thành vũ trụ nhân sinh theo đạo Phật là địa, thủy, phong, hỏa, không, kiến, thức. Bốn đại đầu thuộc phần vật chất và ba đại sau thuộc tinh thần. Chúng sanh khổ sở trầm luân vì chịu sự chi phối hoàn toàn của bốn đại đầu. Đức Phật được giải thoát tự tại, vì Ngài không bị sự chi phối của bốn đại, mà còn vận dụng được ba đại còn lại. Bổn môn Pháp Hoa tuy chỉ có bảy phẩm, nhưng đó là thoại đầu mà tôi thường suy tư, ứng dụng thế nào để mở rộng tương ưng được với bảy quyển của kinh Pháp Hoa và mở rộng hơn nữa sao cho thâm nhập Pháp giới, nghe được hai mươi muôn ức bài kệ Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương. Trao tặng Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình cho 68 tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến tiêu biểu được tôn vinh. Ảnh Thanh Hải/TTXVN Ngày 8/6, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình tổ chức gặp mặt nhân kỷ niệm 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc 11/6/2/1948-11/6/2023 và biểu dương, tôn vinh 68 gương điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước. Tại buổi lễ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình Bùi Văn Khánh nêu rõ hưởng ứng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 75 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã đoàn kết một lòng, phát động và tổ chức nhiều phong trào thi đua rộng khắp, tạo động lực to lớn, cổ vũ, động viên cùng với đồng bào, chiến sĩ cả nước vượt qua gian khổ, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, vững bước trên con đường đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn 2018-2022, tỉnh đã triển khai các phong trào thi đua, tiêu biểu như học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tỉnh Hòa Bình chung sức xây dựng nông thôn mới, tỉnh Hòa Bình chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau... [Thi đua yêu nước trở thành động lực quan trọng trong phát triển KT-XH] Từ các phong trào thi đua yêu nước đã hình thành những tư duy mới, năng động và sáng tạo với tầm nhìn dài hơn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh. Phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018-2022, góp phần quan trọng trong thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ kinh tế-xã hội hằng năm của địa phương. Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức khá, bình quân hằng năm đạt 6,18%, quy mô nền kinh tế được mở rộng. Năm 2022, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP đạt tỷ đồng, tăng 1,23 lần so với năm 2017; GRDP bình quân đầu người năm 2022 đạt 66,7 triệu đồng/người, tăng 1,65 lần; an sinh và phúc lợi xã hội được quan tâm thực hiện. Ông Bùi Văn Khánh, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình, phát biểu tại buổi lễ. Ảnh Thanh Hải/TTXVN Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, lao động, việc làm được chú trọng. Quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được ổn định. Toàn tỉnh có thêm 54 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 73/129 xã, bằng 56,60% tổng số xã vào cuối năm 2022, tăng 30,42% số xã đạt chuẩn nông nông mới so với năm 2017; có 123 sản phẩm OCOP, trong đó có 24 sản phẩm 4 sao và 99 sản phẩm 3 sao. Các chính sách giảm nghèo, hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, bảo trợ xã hội và an sinh xã hội được triển khai đồng bộ, kịp thời. Năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn 12,99%, giảm 5,01% so với cuối năm 2017. Trong 5 năm qua, toàn tỉnh có 503 tập thể, cá nhân được Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ khen thưởng và tập thể, cá nhân được Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh khen thưởng. Đặc biệt, năm 2021, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Tại buổi lễ, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình Nguyễn Phi Long đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm quản lý của chính quyền, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị; phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín và sức mạnh đại đoàn kết của đồng bào các dân tộc trong tỉnh để thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước. Các cấp, ngành phát động phong trào thi đua phải xác định được mục đích, chủ đề, đối tượng, chỉ tiêu thi đua; nội dung thi đua cần rộng khắp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, mỗi lĩnh vực cần có trọng tâm, trọng điểm, gắn với nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Dịp này, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình đã công bố các Quyết định khen thưởng cấp Nhà nước gồm 1 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước; 5 tập thể được tặng Cờ thi đua của Chính phủ; 68 tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến tiêu biểu được tôn vinh./. Danh mục Thích Pháp Hòa Biết chấp nhận mới có thể an lạc – Thầy Thích Pháp Hòa Nghe giảng pháp thoại Biết chấp nhận mới có thể an lạc bởi thầy Thích Pháp Hòa tại Tu Viện Trúc Lâm Edmonton, Canada Trên mobile, nếu Quý vị dùng Chrome để duyệt Web, xem video không được báo … Giải Thoát và Niết Bàn Vấn Đáp – Thầy Thích Pháp Hòa Nghe giảng Phật Pháp vấn đáp Giải Thoát và Niết Bàn 2019 trích Sự thành tựu của các duyên bởi thầy Thích Pháp Hòa ngày Giải thoát là khi mình vượt được một chướng ngại nào … Người Tu Như Ánh Trăng 2019 – Thầy Thích Pháp Hòa Nghe giảng Phật Pháp Người Tu Như Ánh Trăng 2019 bởi thầy Thích Pháp Hòa tại Cleveland, Ohio ngày 2 tháng 10 Trên mobile, nếu Quý vị dùng Chrome để duyệt Web, xem video không được báo … Tu sao cho đúng 2019 – ĐĐ Thích Pháp Hòa Phật Pháp Vấn Đáp 2019 giảng Tu sao cho đúng bởi thầy Thích Pháp Hòa tại Thiền Viện Minh Quang, thành phố Sydney, Úc Châu Trên mobile, nếu Quý vị dùng Chrome để duyệt Web, xem video … Viên Âm – Thầy Thích Pháp Hòa 2019 Nghe giảng pháp thoại Viên Âm do thầy Thích Pháp Hòa chia sẻ tại Tu Viện Viên Âm Montgomery, Alabama Nhiều người thấy việc đi chùa là chuyện ruồi bu. Nhiều người nghĩ tôi tội lỗi gì … Trí Biết Thế Gian 1 – Thầy Thích Pháp Hòa 2019 Nghe giảng Trí Biết Thế Gian 1 bởi thầy Thích Pháp Hòa thuyết giảng tại Tu Viện Liên Trì Mount Vernont, tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ Trên mobile, nếu Quý vị dùng Chrome để duyệt Web, xem video … Sư Phụ của Phật Là Ai? Thầy Thích Pháp Hòa Nghe bài pháp thoại vấn đáp Sư Phụ của Phật Là Ai? Do thầy Thích Pháp Hòa thuyết giảng tại Tu Viện Phổ Đức Calgary, Canada Trên mobile, nếu Quý vị dùng Chrome để duyệt Web, xem video … Cách để Chấp Nhận sự Thay Đổi – Thầy Thích Pháp Hòa Học Cách để Chấp Nhận sự Thay Đổi thuyết giảng bởi thầy Thích Pháp Hòa Sự khổ đau rắc rối trong cuộc sống này là 1 phần của cuộc sống, mình không thể chạy đâu hết. Quan … Thân Tại Gia Tâm Xuất Gia 2019 – Thầy Thích Pháp Hòa Nghe thuyết giảng Thân Tại Gia Tâm Xuất Gia 2019 bởi thầy Thích Pháp Hòa Chùa Bát Nhã miền nam California, ngày Trên mobile, nếu Quý vị dùng Chrome để duyệt Web, xem video không được … Dầu cho tạo tội hơn núi cả chẳng nhọc diệu pháp vài ba hàng Giải thích câu nói Dầu cho tạo tội hơn núi cả chẳng nhọc diệu pháp vài ba hàng. Đây là bài kệ tán kinh Pháp Hoa Thuyết giảng bởi thầy Thích Pháp Hòa Trên mobile, nếu … Trong kho tàng kinh điển ại Thừa, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên Thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản. Các vị thiền sư Việt Nam đời Lý Trần cũng thường chú trọng trì tụng giảng dạy kinh Pháp Hoa song song với kinh Viên Giác, Kim Cang. Hai thiền sư Bảo Tịnh và Minh Tâm dưới đời Lý khoảng năm 1034 suốt 15 năm trì tụng kinh Pháp Hoa chưa từng trễ nải. Thiền sư Thông Biện, vị thiền sư thông thái đời Lý Thánh Tông, từng trả lời Phù Thánh Cảm linh nhân hoàng hậu về các câu hỏi liên quan lịch sử truyền bá Phật Giáo tại Việt Nam, Ngài thường dùng kinh Pháp Hoa dạy người sửa mình, nên người bấy giờ gọi sư là Ngộ Pháp Hoa. Thiền sư Chân Không tịch năm 1100 lúc 18 tuổi, tầm sư học đạo, nhân đến hội giảng của Thảo Nhất tại Chùa Tĩnh Lư núi ông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, bỗng nhiên tỏ ngộ. Sau đó Ngài được vua Lý Nhân Tông mời vào đại hội giảng kinh Pháp Hoa. Bấy giờ Thái Úy Nguyễn Thường Kiệt tức Lý Thường Kiệt và thứ sử Lạng Châu là tướng quốc Thân Công càng thêm kính trọng. Và ngày nay, trong hiện tại việc trì tụng kinh Pháp Hoa rất lan rộng trong giới Phật tử, giúp họ rất nhiều trên bước tu tâm hành thiện theo đạo giác ngộ. Trong kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật, câu đó là Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật’. Như vậy kinh Pháp Hoa chính là kinh nêu rõ mục đích ra đời của Chư Phật, mà dưới đây là đại cương của kinh. Thiên kinh vạn quyển Phật nói ra cùng với những pháp môn tu hành trong đó như quán sổ tức, quán bất tịnh, tham thiền, trì trai giới, an cư kiết hạ… đều chỉ đưa đến mục đích làm Phật. Có kinh nói rộng, có kinh nói đơn giản. Nhưng tựu trung, chẳng có pháp môn nào dễ dàng để tu thành Phật. Pháp môn nào cũng khó. Quán bất tịnh phải quán thật sâu xa, kỹ càng chứ không phải quán qua loa mà thành được. Sổ tức cũng không phải dễ, không cứ chỉ thở vô thở ra vài hơi là xong. Tham thiền, trì trai giới, các môn tu khác cũng đều khó như vậy cả. Vậy mà theo kinh Pháp Hoa, thì việc thành Phật quả dễ. Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, Nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo’. Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp Phật, niệm một lần Mô Phật’, cũng đủ thành Phật đạo. Hoặc chỉ chắp tay hay cúi đầu trước tượng Phật, cho đến trẻ con chơi cát đắp thành tháp Phật mà cũng thành Phật được. Một quyển kinh ại Thừa cao nhất là Pháp Hoa, rốt cuộc dạy một chuyện dễ dàng như vậy, thì hà tất phải tham thiền, giữ giới, kiết hạ an cư ? Cho nên ngài Thường Bất Khinh đã chọn một cách để làm Phật. Ngài không sổ tức, không nhập định, không quét nhà, làm đường, chỉ đi gặp ai cũng nói câu Tôi không dám khinh Ngài, vì Ngài hành Bồ Tát đạo, Ngài sẽ thành Phật’. Ngài Thường Bất Khinh là một vị Bồ Tát Tỳ Kheo, sống giữa chúng Tỳ Kheo tăng thượng mạn có thế lực dưới thời tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương trong quá khứ. Ngài chỉ làm mỗi một việc là đến nơi mọi người, chắp tay cung kính xướng câu Tôi không dám khinh Ngài, vì Ngài sẽ thành Phật’. Trong việc làm đơn giản đó, tuy nhiên, cần phải có một lòng tin mãnh liệt rằng Tất cả chúng sanh đều là Phật’ thì mới làm nổi. Lòng tin ấy nếu không có trí tuệ của Bồ Tát thì không thể có được. ó là Bát Nhã ba la mật; và Ngài làm việc ấy không phải một hai lần mà làm thường xuyên, không phải đối với một hai người mà đối với tất cả mọi người, đó là Tinh Tấn Ba la mật. Trong khi Ngài làm như vậy, có người nghe thì hoan hỷ, vì cho là một lời chúc tụng giá trị nhất, chúc làm vua cũng không bằng; nhưng cũng có người dửng dưng vì không hiểu Ngài muốn nói gì, rồi cũng có người nổi sân vì cho Ngài chọc tức mình, nên xua đuổi đánh đập. Vậy mà Ngài vẫn giữ một thái độ bình thản đối với cả ba hạng người ấy, đó là Nhẫn Nhục Ba la mật. Và mỗi khi đối trước ai nói lên câu Tôi không dám khinh người…’ là nói với một lòng kính cẩn tập chú chứ không phải cuồng loạn hời hợt, hình thức đó là Thiền định Ba la mật. Như vậy, ta thấy một việc làm ngó đơn giản song gom đủ ý nghĩa của Bồ Tát hạnh và sức mạnh của một lòng tin kiên cố Tin mình là Phật và tất cả chúng sanh đều là Phật. Chúng ta đã có ai dám tự tin mình là Phật chưa? Huống nữa là tin người khác là Phật ? Thật khó tin mà tin nổi một kẻ vừa nói láo, vừa mắng chửi cộc cằn kia là Phật được. Phải như một vị đại lương y, đứng trước một con bịnh có những triệu chứng ghê gớm Thổ tả, mê sảng, sốt mặt đỏ gay… Nhưng qua sự bắt mạch thấy rõ ba bộ thốn, quan, xích, đều đi hữu lực mà biết được tánh mạng người đó chưa hề gì, và bảo con bịnh Ông không chết’. Sự quả quyết đó của lương y tạo cho người bịnh một lòng tin tưởng, một sức mạnh, một niềm hy vọng phấn khởi để vươn lên mà sống. Ngài Thường Bất Khinh nói với chúng sanh Các Ngài là Phật’, cũng trong ý nghĩa đó. Nếu chúng sanh vì tự thấy mình là chúng sanh, cam phận chúng sanh, nên cứ mặc tình trầm luân tạo nghiệp. Vì đã là chúng sanh vô phương cứu chữa, thì tội chi mà không trầm luân, tội chi mà không lăn lóc trụy lạc Thân lươn bao quản lấm đầu ? đã làm thân con lươn thì có ngại gì cái đầu bị lấm bùn lầy đã thấy mình thấp thỏi tầm thường thì không còn việc ác gì không làm, vì con người như thế, không tin rằng còn chút phẩm giá nào để vươn lên toàn thiện toàn giác được. Bây giờ, khi nghe nói rằng mình là Phật, có cơ trở thành bậc toàn thiện toàn giác thì trừ phi những người không muốn, ai cũng phải mừng rỡ, và nhờ đó các thói xấu cống cao ngã mạn, nhỏ nhen, bần tiện… khó mà nổi lên được. Có bao giờ một người, khi tự tin mình là Phật, mà lại cứ nhắm mắt sống theo thói ăn cắp, nói láo, kiêu mạn, tật đố, sân si ? Cho nên tự tin mình là Phật thì ngay khi đó mình là Phật. Quán kinh dạy Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật’. Tâm đó là Phật, tâm đó làm Phật, không tâm nào khác hơn. Ngài Thường Bất Khinh thấu hiểu lý ấy trong Kinh Pháp Hoa, nên Ngài chỉ hành Pháp Hoa mỗi một cái hạnh bất khinh’ ấy, tức là không khinh người và không tự khinh mình. Lòng tin Tất cả chúng sanh là Phật’ nó dễ kết hợp mọi người lại với nhau như nước tìm đến nước. Nước với lửa mới chống trái nhau, còn nước với nước thì dù có nước ở bất cứ nơi nào, sông, ngòi, ao, hồ, mương, lạch, dù trong đục, sạch dơ, đều tìm về biển. Tất cả mọi người có được lòng tin mình là Phật cũng thế, cũng tìm về với nhau trong biển cả ại Giác. ó là điểm chính, là cốt tủy, cho nên trong kinh Pháp Hoa, Phật thọ ký cho tất cả hàng Thanh Văn đều thành Phật. Trước đó đối với hàng Thanh Văn, Phật chỉ dạy pháp Tứ ế, 12 nhân duyên. ến hội Pháp Hoa, Phật mới thọ ký Thanh Văn thành Phật. ây là điểm đặc biệt của Pháp Hoa hội. Mặc dù có nhiều kinh điển khác đều nói đến Phật tánh, nói tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, nói đến trí tuệ và mục đích ra đời của Chư Phật, nhưng chỉ nói chung chung. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Phật chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát, còn đối với hàng Thanh Văn thì dạy cho các pháp tu để thành Bích Chi La Hán, chứng nhập Niết Bàn. Những người này tu theo các pháp môn Phật dạy, được chứng quả Thanh Văn liền cho rằng đã viên mãn, nên đến hội Pháp Hoa khi Phật sắp sửa nói, Ngài lại muốn thôi, chính vì nghĩ đến hạng tăng thượng mạn này Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngã pháp diệu nan lư, chư tăng thượng mạn giả, văn tất bất kính tín.’ Thôi thôi chẳng nên nói, Pháp ta vi diệu khó lường, những kẻ tăng thượng mạn nghe sẽ không kính tin. Ngài Xá Lợi Phất phải cầu xin năn nỉ đến lần thứ ba, Phật mới dạy rằng Ông đã ba phen cầu thỉnh, chẳng lẽ Ta không nói’. Khi Ngài sắp sửa nói thì năm ngàn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nam nữ cư sĩ đảnh lễ Phật mà lui ra, vì cho rằng tất cả pháp Phật dạy, mình đã tu, đã đắc cả rồi còn gì để nói, còn gì để nghe nữa ? Sau khi những người này bỏ đi, Phật dạy rằng Lui đi cũng tốt’ thối diệc giai hỷ. Câu nói của Phật nghe tuồng như phũ phàng, tuồng như đối với năm ngàn người này lòng từ bi của Ngài không phổ cập đến. Trong khi ở hội Hoa Nghiêm, chỉ có hàng Bồ Tát lãnh hội được ý chỉ của Phật dạy, còn hàng Thanh Văn ngồi đó mà như đui như điếc; vậy mà Phật không đuổi ra, họ cũng không bỏ ra đi. Ở hội Pháp Hoa thì Phật nói Lui ra cũng tốt’ có phải phũ phàng xua đuổi không ? Không phải, bởi vì ở hội Hoa Nghiêm những vị Thanh Văn tuy không hiểu mà không có lòng tăng thượng mạn, không cho mình đã chứng đắc, nên cứ ngồi đó. Ngồi mà không khinh, không khiếp, không sợ. Còn ở hội Pháp Hoa, những vị Thanh Văn này lại tăng thượng mạn, chưa chứng đắc viên mãn mà tự cho đã chứng đắc viên mãn. Có tâm tăng thượng mạn như thế, mà cứ ngồi lì ở đó, hay nếu Phật bảo cứ ngồi đó đi’ thì thật là không ích gì cho chính bản thân họ mà còn gây chướng ngại cho những người nghe pháp. Và sở dĩ những người này tăng thượng mạn là vì họ chưa tin nổi rằng Tất cả chúng sanh đều là Phật’, họ chỉ tin rằng mình đã đắc quả A La Hán và chẳng những không tin chúng sanh là Phật, họ còn không tin nổi chính mình là Phật’, do đó mà họ đã bỏ ra đi, và Phật dạy rằng họ lui ra cũng tốt. Thành thử kinh Pháp Hoa có nghĩa Hội tam quy nhất, thọ ký thành Phật’. Trước kinh Pháp Hoa, Phật dạy nhiều pháp môn, mỗi pháp môn chứng một quả vị khác nhau như tu Tứ đế pháp đắc quả A La Hán, tu 12 nhân duyên đắc Bích Chi, tu Lục độ làm Bồ Tát… đến hội Pháp Hoa, khi sắp nhập Niết Bàn, Phật mới dạy những gì mà trước đó ngài chưa dạy được, đó là những pháp môn mà ngài dạy bấy lâu chỉ là những phương tiện để bước lên Nhất thừa. Trước kia Thanh Văn đã cho đó là pháp thật, quả thật, nên chăm chỉ tu, chứng và chấp thủ các quả vị đã chứng. Bây giờ Phật mới nói rằng Nhị thừa, Tam thừa đều không thật đều là phương tiện chỉ có Nhất thừa mới là thật, mới là cứu kính. Ngài Thiên Thai Trí Giả cho đó là khai quyền hiển thật, khai cận hiển viễn’ mở phương tiện ba thừa để hiển bày cái chân thật là Nhất thừa Phật đạo. Khai quyền’ là chỉ rõ tất cả các pháp môn Phật nói trước kinh Pháp Hoa đều chỉ là phương tiện để đi đến giáo lý thật của Pháp Hoa là Tất cả chúng sanh đều là Phật’. iều mà mười phương chư Phật đều làm xuất hiện ra ở đời để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến’. iều này, đức Thích Ca Bổn Sư cũng không làm khác với chư Phật 10 phương. Một mặt vì tất cả chúng sanh đều là Phật, một mặt vì bản hoài của tất cả chư Phật ra đời vì một mục đích duy nhất là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, một mặt vì trí tuệ chư Phật thậm thâm đủ cả hai mặt căn bản trí và quyền trí, thấu hiểu cùng tận được thật tướng các pháp nên mới khai quyền hiển thật được. Thật tướng đó là 10 như’ như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạc cứu cách. Mười như này là tướng sai biệt của thật tướng các pháp. Ngài Thiên Thai lấy mười như’ đó phối hợp, với mười giới’ gọi là thập pháp giới với năm ấm, hữu tình thế gian và khí thế gian mà thành bách như thiên như… Thiên Thai tông có danh từ Tam thiên nhất niệm; nhất niệm tam thiên’ là để chỉ cái lý chân thật mà chư Phật đồng chứng như nhau, đó là ba điểm sau đây Thật trí, quyền trí chư Phật đồng nhất. Phật tánh chúng sanh cùng đồng nhất. Bản hoài chư Phật cũng đồng nhất, nên Phật chỉ dạy mỗi một đạo lý duy nhất, đó là đạo Nhất thừa. Nhưng trước khi khai thị để đưa chúng sanh về Nhất thừa, Phật phải nói loanh quanh gọi là phương tiện, để đến Pháp Hoa Ngài mới nói rõ Bản hoài của chư Phật. Do đó là kinh Pháp Hoa cao điểm của giáo lý Phật nên mới là Diệu Pháp. Ngài Thiên Thai chia hai thứ diệu’ là tương đối diệu và tuyệt đối diệu. Những pháp môn Phật dạy trước đây tuy diệu nhưng chưa tuyệt đối, như khi phân thành Thanh văn, Duyên giác thừa và ại thừa, thì ại thừa là diệu, nhưng chỉ diệu tương đối với Thanh văn, Duyên giác, chưa phải diệu thật sự tuyệt đối. ến hội Pháp Hoa thì không còn đối đãi với Thanh văn, Duyên giác mà gồm chung tam thừa vào nhất thừa, nên mới thật là diệu pháp. Pháp Hoa nói thật tướng các pháp, thật tướng đó là Tất cả pháp đều là Phật Pháp, tướng tánh bất nhị. Thế gian tướng thường trụ’. Tất cả pháp, bởi thế, đều là diệu pháp nhứt sắc nhứt hương vô phi trung đạo. Diệu pháp đó ví như hoa sen với những điểm 1. Sinh ra trong bùn mà không nhiễm bùn. 2. Khi hoa nở thì tỏa hương thanh khiết nhẹ nhàng. Nghĩa là những pháp mà Phật nói ở trong Diệu pháp Liên hoa cũng phát xuất từ tam thừa pháp, ví như hoa sen vẫn sinh từ bùn. Cái hoa diệu pháp từ trước bị vùi lấp trong bùn kiến chấp của tam thừa, đến hội Pháp Hoa thì hoa sen từ bùn nở ra mà không dính bùn, lại tỏa hương vi diệu. ạo Phật quả là đạo hoa sen. Phật ra đời đi bảy bước cũng đi trên bảy hoa sen có nghĩa Sáu hoa trước chỉ cho sáu đức Phật quá khứ là Tì Bà Thi, Thi Khí, Hoa thứ bảy là Phật Thích Ca vậy. Cũng có nghĩa khi mới phát tâm đức Thích Ca đem 7 hoa sen dâng cúng đức Phật Nhiên ăng, nên khi Ngài sắp thành Phật có 7 hoa sen đỡ chân ngài. Khi thành đạo, Ngài quan sát căn cơ chúng sanh qua hình ảnh những hoa sen trong hồ Có hoa đã vươn lên khỏi mặt nước, có hoa còn chìm, có hoa chưa ra khỏi bùn, nhưng tất cả đều là hoa sen và đều lên khỏi mặt nước tỏa hương khi gặp ánh sáng mặt trời. Chúng sanh cũng vậy, ở trong đống bùn phiền não mà cũng không dính bùn, vì chưa ra khỏi phiền não mà gọi là chúng sanh, đến khi gặp được mặt trời diệu pháp của Phật soi đến thì cũng đều nở. Ngài Huyền Trang khi đi thỉnh kinh, trong lúc chờ đợi cấp giấy đi đường, một đêm mộng thấy một ngọn linh sơn giữa biển. Ngài nhảy xuống biển liền có hoa sen đỡ đưa Ngài lên núi. Và trước khi thị tịch, Ngài cũng thấy hoa sen. Nhưng đó là hoa sen trong nước, còn thứ sen trong lửa như lời Thiền sư Ngộ Ấn Việt Nam Diệu tánh hư vô bất khả phân Hư vô tâm ngộ đắc hà nan Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận Liên phát lô trung thấp vị căn. Hay của ộng Sơn Lương Giới, Sư Tổ phái Tào ộng Lưỡng kiếm giao phong bất tu tị Hảo thủ do như hỏa lý liên Ám chỉ rằng ở trong cái lò lửa là thân ngũ uẩn uế trược đầy lửa phiền não của chúng sanh, hoa sen Phật tính vẫn tươi như thường. Chân Nguyên Thiền Sư Việt Nam cũng có câu “Trần trần sát sát Như Lai Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen Hoa là bản tánh trạm viên Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng Hậu học đã biết hay chăng Tâm hoa ứng nguyện nói năng mọi lời.” Do đó mà kinh Pháp Hoa lấy dụ hoa sen. Trên đây là ý nghĩa tóm tắt kinh. Bây giờ để bổ túc, sẽ nói qua về bố cục kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bố cục kinh pháp hoa Kinh này là một kinh dịch ra Hoa văn rất sớm, vào năm 286 TL do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch đề là Chánh Pháp Hoa Kinh 10 quyển. Trước đó không lâu vào năm 256 TL tại Giao Châu có Ngài Chi Cương Lương cũng dịch lấy tên là Pháp Hoa Tam Muội 6 quyển, nhưng hiện trong Tạng chỉ có một quyển Pháp Hoa Tam Muội do Trí Nghiêm đời Lưu Tống dịch. ời ao Tần, Ngài La Thập dịch vào năm 404 lấy tên Diệu Pháp Liên Hoa 7 quyển. ời Tùy năm 601 TL hai Ngài Xà Na và Cấp a cũng dịch lấy tên là Thiên Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa 7 quyển. Bộ Pháp Hoa thường được nghiên cứu học hỏi là bộ do Ngài La Thập dịch 7 quyển 28 phẩm. Thiên Thai tông chọn kinh này làm bản kinh chính yếu để lập tông, và chia 28 phẩm ra làm hai phần Phần đầu gồm 14 phẩm trước, gọi là tích môn tích hóa, gọi tắt là tích môn, phần sau gồm 14 phẩm sau, gọi là bản môn bản hóa, gọi tắt là bản môn môn dạy không phải là cửa mà là phương diện. Sự hóa độ của đức Phật có dấu tích, biểu hiện ra giữa trần gian cho chúng ta nghe được thấy được rõ ràng, thì gọi là tích môn. Tích phải có gốc từ đó nó phát sanh, cái gốc đó là bản môn. ức Phật Thích Ca hiện ra nơi đời tất phải từ một đức Phật Vô Lượng Thọ, và giáo pháp Ngài giảng nói cũng là pháp Ngài đã chứng từ vô lượng kiếp, gọi là bản môn. Như ánh trăng chiếu trên sông hồ, khi có khi không, khi còn khi mất, do nước có đầy vơi trong đục mà ra, nhưng trăng trên trời, thì luôn luôn có. Bản môn tức thọ mạng của Phật và giáo pháp của Ngài, sự giáo hóa của Ngài là vĩnh cửu, song tích môn thời Phật tùy giai đoạn, căn cơ, nghiệp lực chúng sanh mà có nơi hiện nơi không. Nói thế để biết, sự nhập Niết Bàn của Phật tại rừng Sa La là sự Niết Bàn của Tích môn, không phải của bản môn, đó là sự vắng bóng của trăng trong nước. Sự hiện sinh của Phật ở vườn Lâm Tỳ Ni cũng thế, chỉ là sự hiện diện của tích môn. Còn ức Phật của Bản Môn thì không sinh không diệt, như trăng trên trời. Chúng hội trong tích môn là chúng hội ở thế giới ta bà uế độ này, tại Kỳ Viên Tịnh Xá; còn chúng hội trong bản môn, ngay từ phẩm 11 trở đi, là chúng hội siêu thời gian không gian, không phải như ở trong tích môn có người ở ta bà nghe kinh và Kỳ Viên là nơi chốn. Nay hãy đi vào chi tiết. Tích môn 14 phẩm trước. Trong phần tích môn, thì phẩm Tựa đầu tiên bao gồm nhiều ý nghĩa tổng quát. Từ phẩm thứ 2 là phẩm Phương tiện đến phẩm thứ 9 Thọ Ký, đặc biệt là nói về Tích môn, mà phẩm Phương tiện là chủ yếu, còn 7 phẩm kế tiếp kia chỉ là diễn rộng đạo lý ở phẩm này cho hàng căn cơ chậm hiểu. Thiên Thai chia phần tích môn ra Tam châu Thuyết pháp châu có nghĩa là toàn vẹn. Trong việc khai quyền hiển thật, thì phẩm Phương tiện là pháp thuyết châu chỉ có hàng Thanh văn thượng căn mới hiểu, như Ngài Xá Lợi Phất, được Phật thọ ký ngay. Lần thứ hai, Phật phải giải thích bằng ba thí dụ gọi là dụ thuyết châu nghĩa là thay vì nói thẳng điều cần nói như ở phẩm Phương tiện, ở đây Ngài dùng ba thí dụ là thí dụ ba cõi như nhà lửa, đứa con khốn cùng và cây thuốc, để cho hàng trung căn tín giải và được thọ ký trong lần này như bốn vị Tu Bồ ề, Mục Kiền Liên, Ca Diếp và Phú Lâu Na. Ở phần dụ thuyết châu này gồm bốn phẩm là phẩm Thí dụ, Tín giải, Dược thảo, Thọ ký. Lần thứ ba gọi là Nhân duyên thuyết châu gồm phẩm Hóa Thành Dụ, Ngũ bách đệ tử, Thụ học vô học ký. Ở đây Phật nhắc lại cho các đệ tử Thanh Văn nhớ lại nhân tu của họ trong quá khứ. Họ đã từng gặp Phật, phát tâm ại thừa mà nay bị quên đi, nên Phật nhắc cho họ nhớ bản nguyện để phục hồi cái tâm hướng ại thừa của họ. Lần này rất đông người ngộ giải và được thọ ký. Tuy đề phẩm là Ngũ bách thọ ký’ nhưng kỳ thực là 1250 vị, nhưng năm trăm vị này danh tiếng mà thôi. Lần này, chẳng những hàng vô học La Hán được thọ ký, mà cả hạng hữu học cũng được. ây là hàng hạ căn đắc ký. ối tượng thuyết pháp Phật nhắm đến là hàng Thanh văn hồi tiểu hướng đại, khiến họ đi vào Nhất thừa. Nói rộng ra, là thọ ký cho tất cả chúng sanh. Có hai lối thọ ký biệt thọ ký và thông thọ ký. Biệt thọ ký là thọ ký từng người, từng nhóm người sẽ thành Phật ở thế giới tên gì, Phật hiệu gì, Hàng Thanh văn được thọ ký trong hội Pháp Hoa là biệt thọ ký. Nhưng về sau, có những thọ ký chung cho những người tu sau khi Phật đã Niết Bàn. Bởi vì trong một hội chúng nghe pháp, bao giờ cũng có bốn hạng người là Chúng khải thỉnh, những Ngài thưa thỉnh để Phật nói pháp cho mọi người khác nghe. ó là những vị Bồ Tát đã ngộ, nhưng phương tiện thưa hỏi vì chúng sinh. Hoặc là những người đương cơ’ mà lợi căn biết đặt câu hỏi. Chúng đương cơ, đối tượng chính của buổi thuyết pháp. Phật nhắm ngay hạng này mà nói, vì hạng này có thể lãnh hội lời Phật dạy. Trong hội Pháp Hoa, chúng đương cơ là hàng Thanh văn hồi tiểu hướng đại, được Phật dùng phương tiện dắt dẫn lên Nhất thừa. Chúng tán dương, là những Bồ Tát đã được thọ ký, đã nghe kinh này rồi, nhưng vẫn ngồi đó để tán dương Phật, Pháp, tán dương sự nói pháp và người nghe pháp. Chúng kết duyên, lại có hạng người nghe mười câu mà chỉ hiểu một, nghe sau quên trước, nhưng đó vẫn là một cách kết duyên để sau này được hiểu Phật và làm Phật vậy. Nói thế để hiểu rằng, chúng đương cơ trong kinh Pháp Hoa là hạng người nào, để hiểu được tinh thần kinh. Trên đây là tóm tắt ý nghĩa chín phẩm trước. Từ phẩm mười Pháp Sư đến phẩm mười bốn An lạc hạnh là bổ túc cho tám phẩm trước là những phẩm chính của tích môn tích hóa. Trong phẩm mười này Phật thọ ký chung tất cả những ai có nghe kinh niệm Phật. Vì vậy đạo lý Pháp Hoa là một đạo lý cần được tuyên dương hoằng hóa, và người nói kinh này cần thành tựu ba việc để sự nói kinh được viên mãn, đó là nhập Như Lai thất, trước Như Lai y, tọa Như Lai tòa vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Phẩm Hiện bảo tháp thứ mười một, một bảo tháp của Phật a Bảo từ dưới đất vọt lên khen ngợi. Ý nghĩa ở đây là Phật vốn bất diệt. ức Phật a Bảo diệt mà bất diệt, để hiện thị ức Thích Ca sanh mà không sanh. Hai Ngài ngồi chung một tòa, bởi vì cùng bất sanh bất diệt như nhau. Lại nữa, a Bảo còn là biểu thị Phật tánh sẵn có trong đất phiền não khi gặp được kinh Pháp Hoa thì hiển lộ. Phẩm ề Bà ạt a thứ mười hai, trong những kinh khác, ề Bà là một người tạo đủ các tội lỗi, nghiệp chướng nặng nề. Nhưng đến kinh này, thì phật cho biết vô lượng kiếp về trước, ề Bà đã là thiện tri thức giúp Ngài thành Phật qua việc ông đã nói lại kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chứng tỏ năng lực kinh này đã làm cho Phật thành Phật và cũng làm cho một người ác như ề Bà mà cũng thành thiện tri thức được nhờ nói lại kinh Pháp Hoa. Lại còn có chuyện Long nữ thành Phật, làm cho Ngài Xá Lợi Phất phải ngạc nhiên đã làm súc sinh, lại mang thân nữ, ở đời coi như vậy là hết chỗ đứng, vậy mà vẫn thành Phật được, chứng tỏ những chúng sinh nào tin được kinh này thì đều thành Phật, và chứng đắc đạo lý Phật tính bình đẳng của Pháp Hoa là không phân biệt nam nữ trời rồng, người hay súc sinh. Thật là một sự bình đẳng tuyệt đối. Phẩm An lạc thứ mười bốn, muốn nói kinh Pháp Hoa ở đời ngũ trược khỏi bị chướng ngại, phải an trụ bốn hạnh là không tích hạnh, ly kiêu mạn hạnh, ly tật đố hạnh và từ bi hạnh. Hay thân an lạc hạnh, khẩu an lạc hạnh, ý an lạc hạnh, và an lạc thệ nguyện. Bản môn bản hóa Từ phẩm 15 cho đến hết. Phẩm Tùng ịa Dõng Xuất thứ 15, từ phẩm này trở đi toàn nói đến những cảnh giới vượt ngoài tầm hiểu biết thông thường của người phàm. Từ dưới đất trồi lên vô số Bồ Tát, như ở phẩm 11 Tháp ức a Bảo cũng từ đất vọt lên, phẩm này cùng với phẩm 16 là Phẩm Như Lai Thọ Lượng Cả hai phẩm 15, 16 này là phần chính của Bản môn. Phật nói Ta vốn ở trong Ta Bà Thế Giới này từ vô lượng kiếp chứ không phải mới sinh’. Bản môn này là gốc, từ đó mà có ra tích môn, là sự đản sinh của Phật tại Lâm Tỳ Ni vậy. Tiếp đến, Phật phân biệt công đức của Người trì kinh ở phẩm Phân Biệt Công ức. Phẩm Tùy Hỷ Công ức là Tùy hỷ với người nghe kinh, khuyến khích người khác nghe Pháp Hoa mặc dù mình không nghe cũng được có công đức thuộc hạ phẩm. Phẩm Pháp Sư Công ức thứ 19 là chỉ cho trung phẩm công đức nhờ nghe, đọc tụng diễn nói kinh này. Phẩm Thường Bất Khinh thứ 20, là nói đến Thượng phẩm công đức của Ngài Thường Bất Khinh, tức công đức hành hạnh Pháp Hoa, như đã nói trên. Nói xong phẩm này, Phật hiện thần lực phẩm 21 để chứng minh thêm công đức đó, và Chúc lụy phẩm 22 rằng kinh này nên được lưu truyền rộng rãi. Từ phẩm 23 đến cuối có thể gọi là phần lưu thông, sự hoằng kinh Pháp Hoa do những vị Bồ Tát, hoằng kinh bằng những khổ hạnh của mình như phẩm Dược Vương, Diệu Âm, hoằng kinh do sự cứu khổ nạn cho chúng sinh như phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn hay bằng thần chú lực hộ trì cho người đọc tụng diễn nói Pháp Hoa như phẩm à La Ni 26… Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương phẩm 27 kể một ông vua tà kiến, nhưng có bà vợ và hai con trì kinh Pháp Hoa đã tìm đủ cách để cải hóa cha, cuối cùng vua chịu đi nghe kinh Pháp Hoa mà trở thành Bồ Tát. ây là nói lúc hộ trì của kinh, có năng lực cải tà quy chánh. Phẩm 28 là phẩm Phổ Hiền, khuyến khích hoằng kinh. Ngài Trí Khải cho 14 phẩm sau này là bản môn bản hóa, nhưng chủ yếu bản môn chính thức là chỉ có 2 phẩm 15 và 16. Vị trí kinh Pháp hoa Theo sự phân giáo của Ngài Thiên Thai và Cát Tạng Thiên Thai tông và Tam Luận tông có 5 thời kỳ thuyết pháp của Phật là Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhã, Phương ẳng và Pháp Hoa, Niết Bàn. Trong đó lại chia ra ba giai đoạn chuyển pháp luân tam pháp luân là Căn bản pháp luân Kinh Hoa Nghiêm, khi Phật nói kinh này chỉ một số rất ít người hiểu, nên Ngài mới tùy phương tiện nói ra ba thừa đó là Chi mạt pháp luân Trước hết là thời A Hàm, nhưng vì hàng Thanh văn thiên chấp kinh này, nên Phật lại nói hai thời giáo kế tiếp là Bát Nhã và Phương ẳng để đưa lên ại thừa. Nhưng ại thừa này chưa rốt ráo, vì mới chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát thành Phật, chưa thọ ký cho Thanh Văn. Do đó giáo pháp ở các thời này vẫn còn là chi mạt cành ngọn. ến giai đoạn thứ ba Nhiếp mạt quy bổn Pháp luân Mới là pháp luân rốt ráo của Phật, đó là thời giáo Pháp Hoa gồm hết những chi mạt về căn bản. Mở đầu là Hoa Nghiêm, kết thúc là Pháp Hoa, đấy là thủy chung của một thời giáo hóa mang cùng một ý nghĩa nhưng hai phương pháp khác nhau Hoa Nghiêm thì nói thẳng nên chỉ có một số Bồ Tát giải ngộ được mà thôi, còn Pháp Hoa thì dùng nhiều cách nói để đưa người đến giác ngộ, tùy căn cơ chúng sanh Phật đã nói những kinh khác, cho đến Pháp Hoa thì Phật gồm tất cả giáo lý 45 năm đã nói. Vì tính cách quan trọng đó của kinh này mà Ngài Trí Khải đã căn cứ để lập ra Thiên Thai tông rất thịnh hành. Khi truyền qua Nhật Bổn, đến năm 1222 có sư Nhật Liên dựa vào Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Ngài Trí Giả mà lập ra Nhật Liên Tông đến nay vẫn thịnh hành. ấy là chưa kể trước đó 6,7 thế kỷ, Thánh ức Thái Tử Shotaku-taishi người có công lớn du nhập và truyền bá ạo Phật ở Nhật, ông nhiếp chánh những năm 593-622, sau khi chú giải kinh Duy Ma, Thắng Man và Pháp Hoa, ông đã dựa vào đó để soạn thảo và công bố bản Hiến Pháp 17 điều đầu tiên của Nhật, mà tinh thần của nó đến nay vẫn còn giá trị. PHẨM 20 THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ tát Đắc Đại Thế “Ngươi nay nên biết, nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di trì kinh Pháp Hoa mà bị mắng nhiếc chê bai, thì người mắng nhiếc chê bai mắc tội báu rất lớn, còn người trì kinh được công đức thanh tịnh lục căn. Này Đắc Đại Thế ! thuở xưa cách nay vô lượng vô biên số kiếp, có Phật hiệu Oai Âm Vương ra đời, nhằm thời kiếp Ly suy, tại nước Đại Thành. Phật vì người cầu quả Thanh Văn, nói Pháp Tứ đế; vì người cầu quả Bích Chi Phật, nói pháp Thập Nhị Nhân Duyên; vì hàng Bồ tát cầu Vô thượng giác, nói pháp sáu Ba la mật dẫn dắt đến cứu cánh Phật tuệ. “Đắc Đại Thế ! Phật Oai Âm Vương sống lâu 40 ức na do tha hằng sa kiếp ! Chánh pháp của Phật trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần của một thế gian ! Tượng pháp trụ trong một số kiếp nhiều như vi trần của bốn châu. Sau khi Phật Oai Âm Vương diệt độ, Chánh pháp, Tượng pháp diệt hết có đức Phật khác ra đời, cũng có một hiệu là Oai Âm Vương. Sau đó, tuần tự, có hai muôn ức Phật ra đời cùng một danh hiệu. Phật Oai Âm Vương đầu tiên diệt độ và sau lúc Chánh pháp diệt hết trong thời Tượng pháp, các Tỳ kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ có một Bồ tát tên Thường Bất Khinh. Sở dĩ có tên nầy là vì mỗi khi gặp các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Bồ tát lễ lạy khen ngợi “Tôi rất kính quý vị, không dám khinh quý vị. Vì quý vị đều đi trên đường Bồ tát và sẽ được thành Phật”. Bồ tát Thường Bất Khinh không hề đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái, thậm chí hễ xa thấy tứ chúng là lạy nói “Tôi không dám khinh quý vị. Vì quý vị đều sẽ được thành Phật”. Trong tứ chúng có người lòng bất tịnh, giận mắng “Ông vô trí Tỳ kheo ở đâu đến mà nói tôi chẳng dám khinh quý vị, rồi lại thọ ký cho chúng tôi sẽ thành Phật; chúng tôi không dùng lời thọ ký bá láp đó đâu”. Tuy trải qua nhiều năm bị mắng nhiếc, Bồ tát Thường Bất Khinh không giận hờn, cứ luôn nói “Quý vị sẽ làm Phật”. Lắm khi bị đánh bằng gậy, bị ném gạch đá, Bồ tát chạy tránh ra xa, miệng vẫn nói “Tôi chẳng dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật”. Vì đó mà ông được gọi tên là Thường Bất Khinh. Lúc Bồ tát Thường Bất Khinh sắp mệnh chung, trong hư không nghe trọn hai mươi ngàn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương đã nói thuở trước. Nghe xong Bồ tát sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, vì người rộng nói kinh Pháp Hoa. Lúc đó, những người trong tứ chúng trước kia đã khinh rẻ Bồ tát Thường Bất Khinh, nay thấy Bồ tát được sức thần thông, sức nhạo thuyết biện tài, sức đại thiện tịch và nghe Bồ tát thuyết pháp, đều tin phục và theo làm đệ tử. “Bồ tát Thường Bất Khinh giáo hóa ngàn muôn chúng sanh khiến không suy thoái trên đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những chúng sanh ấy, sau khi mệnh chung, được gặp hai ngàn ức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh trong hội Pháp Hoa. Nhờ nhân duyên đó, những chúng ấy gặp lại hai ngàn Phật đồng hiệu Vân Tư Tại Đăng Vương ở trong pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng vì hàng tứ chúng nói kinh Pháp Hoa, do vậy mà sáu căn được thanh tịnh, thuyết pháp cho tứ chúng nghe mà không sợ sệt. “Này Đắc Đại Thế ! Bồ tát Thường Bất Khinh thuở ấy đâu phải người nào lạ ! Chính là thân ta hiện nay vậy. Nếu đời trước ta chẳng thọ trì, đọc tụng và giải nói cho người khác nghe kinh nầy, thì ta chẳng thể mau được quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì ta đã ở trong cõi nước của chư Phật, thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói kinh nầy, nên mau được quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. “Này Đắc Đại Thế ! những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thuở ấy, vì khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp luôn luôn chẳng gặp Phật, chẳng gặp Pháp, chẳng thấy Tăng, ngàn kiếp ở địa ngục chịu khổ não lớn. Hết tội rồi, lại gặp Bồ tát Thường Bất Khinh giáo hóa cho đạo quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. “Này Đắc Đại Thế, bốn chúng đã khinh khi Bồ tát Thường Bất Khinh nào phải ai lạ, chính đó là những người hiện nay đều là bậc bất thối chuyển trên đường chánh giác, tức là bọn 500 Bồ tát của Bạc-đà-bà-la, bọn 500 Tỳ kheo của Sư tử Nguyệt, bọn 500 Ưu bà tắc của Ni Tư Phật, đang ở trong pháp hội nầy”. “Này Đắc Đại Thế, phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích cho các Đại Bồ tát có thể giúp họ đến Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên sau khi Phật diệt độ, phải thường thọ trì, đọc tụng, giải nói”. Đức Phật bèn đọc một bài kệ nhắc lại nghĩa trên. THÂM NGHĨA Thường Bất Khinh là danh hiệu do các Tỳ kheo và những người Tăng thượng mạn đặt, để tặng cho người với ác ý mỉa mai khinh thị. Nhưng với hệ giáo lý thuần viên độc diệu của Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ tát là một âm thanh réo gọi, thức tỉnh những ai còn mê mệt, mơ hồ về Tri Kiến Phật, và khả năng thành Phật của mình. Trong tất cả thứ khinh, khinh khả năng thành Phật của mình là tai họa, là thiệt thòi lớn lao hơn hết. Chàng cùng tử sở dĩ đói khổ lang thang, chỉ vì không nhận biết ở vạt áo mình có hạt bảo châu vô giá. Vấn đề khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Vấn đề Phật thọ ký tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, đến đây càng thấy rõ, những vấn đề đó đã có từ thời Phật Oai Âm Vương, mà người truyền bá tích cực cái chân lý đó, là Bồ tát Thường Bất Khinh vậy. Phật Oai Âm Vương xuất thế độ sanh hai muôn ức Phật tiếp nối ra đời có cùng một hiệu Oai Âm Vương như vậy. Sự việc đó, nhằm nói lên cái ý Tâm trước tâm sau là một. Chân lý trước chân lý sau không khác. Đề cập sự kiện Oai Âm Vương Phật ở phẩm 20 là một dấu hiệu chỉ dẫn hướng đi, để dẫn đến hành pháp, cách tu quán niệm “Diệu Âm” và “Quán Thế Âm” ở phẩm 24 và 25 sau nầy. Vấn đề âm văn là vấn đề quan trọng bậc nhất, vì phù hợp căn cơ chúng sanh ở cõi Ta bà, sau khi so sánh 25 cách tu qua 18 giới và 7 đại, đúc kết thành quả, Bồ tát Văn Thù bạch Phật “Phật xuất Ta bà giới Thử phương chân giáo thể Thanh tịnh tại âm văn Dục thủ tam ma đề Thực tùng văn trung nhập” Dịch Cách giáo hóa cõi nầy Bén nhạy ở âm văn Muốn được tam ma đề Phải từ nghe mà nhập Kinh Thủ Lăng Nghiêm Oai Âm Vương Phật, phải được hiểu là Phật tâm, tiếng lòng trong trắng của con người, khi con người còn “oai quyền”, còn khả năng tự chủ. Phật xuất hiện ở kiếp Ly Suy, nghĩa là ở vào thời điểm mà tâm không có các suy tàn bệ rạc Tham, sân, si, mạn….Đó là thời điểm Phật Oai Âm Vương hiện ở lòng ta. Và cũng chính lúc đó là lúc Oai Âm Vương Phật ở nước “Đại Thành” viên mãn nhất. Nếu là thời kỳ chánh pháp, những Tỳ kheo tăng thượng mạn chưa có cơ hội thao túng hoành hành. Bồ tát Thường Bất Khinh ở vào thời kỳ tượng pháp bấy giờ tăng thượng mạn Tỳ kheo….có thế lực lớn mới áp đảo người lành, chỉ vì cái tội nói lên sự thật “Tôi không dám khinh các Ngài Vì các Ngài đều sẽ thành Phật”. Tu nhơn thành Phật, cốt ở chỗ nhận thức chân lý rồi thực hành những gì phù hợp quy luật của chân lý. Nhận thức rõ quặng vàng rồi đem đốt, nung nấu, lọc thì vàng ròng sẽ hiển hiện ra. Bồ tát Thường Bất Khinh là người thực hành chân lý chỉ dạy ở kinh, mà không chuyên đọc tụng kinh điển qua ngữ ngôn văn tự. Tế Thiên Hòa thượng nói “Tụng kinh giả minh Phật chi lý” Tụng kinh cốt để hiểu lý Phật dạy cái gì. Phải “sắp chết”, có khi cần phải chết thật cũng nên. Có chết đi cái cũ kỹ, cái hạn hẹp, cái ô trược để có cái mới mẻ hơn, cái thanh tịnh hơn. Bồ tát Thường Bất Khinh chỉ qua một cơn “sắp chết” mà thâm nhập Pháp Hoa tam muội, vượt hơn gấp hai mươi ngàn muôn ức lần. Qua một cơn “sắp chết” để rồi sống thêm hai muôn trăm ức na do tha tuổi, để vì người giảng nói Pháp Hoa. Đó là sự phủ định để tiến lên theo đường xoắn ốc trong quá trình tu tập vậy. Chánh nghĩa sẽ thắng mặc dù quá trình tranh đấu có gian khổ gay go. Chân lý sẽ thắng mặc dù bọn người tăng thượng mạn, bọn người lợi dưỡng, bọn người kiến thủ áp đảo lấn lướt một thời. Bồ tát Thường Bất Khinh thành công trong giải thoát tự tại, trong đại thiện tịch của mình. Nhóm người tăng thượng mạn…cuối cùng quay về quy thuận phục tùng chân lý. Chánh nghĩa sáng ngời, chân lý luôn luôn tỏ rạng. Bồ tát Thường Bất Khinh an nhiên tự tại giảng kinh Pháp Hoa ở pháp hội của hai muôn ức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Và trong pháp hội của hai nghìn Phật cùng hiệu Vân Tự Tại Vương. Nói trắng ra Bồ tát Thường Bất Khinh đường hoàng tự tại giảng nói kinh Pháp Hoa hướng dẫn chúng sanh đi trên con đường Phật, dưới bầu vũ trụ thênh thang, trời quang mây sáng, từ kiếp nầy sang kiếp khác, để hoàn thành sứ giả Như Lai, bồi dưỡng mãi lên cái nhân thành Phật của mình. Những người mắng nhiếc đánh đập Bồ tát Thường Bất Khinh, nghìn kiếp ở địa ngục a tỳ, hai trăm ức kiếp không gặp Phật -Pháp – Tăng. Đó là điều chí lý. Bởi vì, họ không chịu sống trong chân lý, trong ánh sáng thì họ sống trong mê mờ, trong bóng tối vậy. Sống trong mê mờ, trong bóng tối thì họ sẽ chịu khổ dài dài trong địa ngục A tỳ. Bởi vì A tỳ ngục có nghĩa là chỗ thọ khổ liên tục, không có lúc tạm xả hơi. Không biết mình có Phật chất, không hiểu được Tri Kiến Phật của mình, thì đừng mong gì thấy Phật ở một nơi khác. Pháp và Tăng cũng vậy. Người Phật tử phải học kỹ ba pháp tự quy y - Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo phát vô thượng tâm. - Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải. -Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng nhất thiết vô ngại. Hiểu rõ ý nghĩa tam tự quy y, ta cũng có gặp gỡ Phật – Pháp – Tăng thường xuyên trong đời sống hằng ngày của ta đó. Xưa kia là Bồ tát Thường Bất Khinh, nay là Phật Thích Ca hiện tại. Xưa kia là những người tăng thượng mạn Tỳ kheo và cư sĩ, nay là nhóm ông Bạt-đa-la năm trăm Bồ tát. Nhóm ông Sư Tử Nguyệt 500 Tỳ kheo. Nhóm ông Ni Tư Phật 500 Ưu Bà tắc. Qua câu chuyện “bổn sanh, bổn sự” đó, người Phật tử thấy rằng Gieo giống sớm thì thu hoạch sớm. Chần chờ ương hạt thì trái chín muộn hơn. Nhưng có cái vinh hạnh ưu việt chung cho tất cả mọi người. Dù sớm, dù muộn hạt giống Phật của mỗi người không đời nào mất ! Người Phật tử phải luôn luôn đừng khinh mình Thường Bất Khinh. Mỗi chúng ta phải là một Bồ tát Thường Bất Khinh đối với chúng ta. Ngày đêm ta nên tự nhủ “Ngươi sẽ thành Phật”. SHARE THIS

thi vinh phap hoa kinh